Chuyển đổi số ngành Nông nghiệp tạo nền vững chắc cho trụ cột kinh tế

|

Chuyển đổi số ngành Nông nghiệp tạo nền vững chắc cho trụ cột kinh tế

Tại nhiều quốc gia trên thế giới, chương trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nô;ng nghiệp được xây dựng như một chính sách ưu tiên phát triển hàng đầu. Là đất nước có ngành Nô;ng nghiệp giữ vai trò trụ cột của nền kinh tế, Việt Nam cũng khô;ng nằm ngoài xu hướng chung của thế giới. Chuyển đổi số nô;ng nghiệp góp phần chuyển đổi hệ thống nô;ng sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, giúp giải quyết bài toán về tăng năng suất, đồng thời thúc đẩy ngành nô;ng nghiệp phát triển theo hướng bền vững.


Chuyển đổi số - Giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và phát triển bền vững


Nô;ng nghiệp là ngành kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù tỷ trọng nô;ng nghiệp trong tổng sản phẩm cả nước (GDP) ngày càng giảm, song trong tầm nhìn dài hạn, nô;ng nghiệp vẫn giữ vai trò chiến lược, là trụ cột chống đỡ nền kinh tế, góp phần vượt qua giai đoạn khó khăn, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số nô;ng nghiệp được coi là cơ hội để Việt Nam thay đổi từ mô; hình sản xuất nhỏ lẻ, kém hiệu quả và thiếu liên kết chuỗi giá trị chuyển sang nền nô;ng nghiệp thô;ng minh, kinh tế nô;ng nghiệp số. Đồng thời là giải pháp then chốt thúc đẩy ngành nô;ng nghiệp Việt Nam vươn lên tầm cao, phát triển một cách bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và thể hiện trách nhiệm hơn với mô;i trường.

Việc ứng dụng cô;ng nghệ Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), cô;ng nghệ sinh học đem lại nhiều lợi ích, giúp phân tích dữ liệu về mô;i trường, thổ nhưỡng, con giống, cây trồng, các giai đoạn sinh trưởng. Dựa trên những dữ liệu được cung cấp để đưa ra cách thức phù hợp như: Bón phân, tưới nước, phun thuốc bảo vệ thực vật, thu hoạch, lựa chọn con giống… trong chăm sóc cây trồng, vật nuô;i, nhờ đó, giảm được chi phí, giảm ô; nhiễm nguồn nước và đất đai, bảo vệ được sự đa dạng sinh học. Theo các chuyên gia, ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất nô;ng nghiệp có thể giảm được một nửa chi phí và cô;ng lao động, giảm khoảng 50% khí thải nhà kính và tăng khoảng 30% năng suất.

 

Chuyển đổi số giúp phát huy vai trò trụ cột kinh tế của nô;ng nghiệp

Tăng cường ứng dụng cô;ng nghệ số vào toàn ngành nô;ng nghiệp còn thúc đẩy mối quan hệ cung - cầu, giúp tăng cường kết nối giữa người sản xuất, nhà phân phối, người tiêu dùng, nhờ đó đảm bảo tốt hơn cho đầu ra của nô;ng sản. Nhờ tính ưu việt và tiện dụng của cô;ng nghệ số, người tiêu dùng có thể truy xuất và theo dõi được các thô;ng số về chất lượng nô;ng sản, áp dụng kỹ thuật canh tác, chăn nuô;i đảm bảo phù hợp với các yêu cầu thương mại quốc tế. Chuyển đổi số đem lại cô;ng cụ theo dõi và quản lý mức độ phát thải khí nhà kính của chuỗi cung ứng và tránh những rào cản khô;ng cần thiết khi xuất khẩu sang các thị trường giá trị cao, góp phần đưa nô;ng sản Việt Nam đến gần hơn với cung đường xuất khẩu ra thị trường thế giới.

Đặc biệt, trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần thực hiện cam kết trong các Hiệp định thương mại đã ký, cùng các cam kết quốc tế về bảo vệ mô;i trường như phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050. Ứng dụng cô;ng nghệ số trong sản xuất nô;ng nghiệp khô;ng chỉ giúp tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng nô;ng sản, mà còn góp phần bảo vệ mô;i trường; đồng thời giúp giảm bớt sự phụ thuộc của quá trình sản xuất vào các yếu tố bất lợi từ tự nhiên, như thời tiết, khí hậu, kiểm soát dịch bệnh và cô;ng tác giống được thực hiện tốt hơn.

Mặc dù chưa có số liệu thống kê cụ thể về kết quả chuyển đổi số trong lĩnh vực nô;ng nghiệp, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số ngành Nô;ng nghiệp đã gặt hái được một số kết quả ban đầu. Đáng chú ý là nhận thức của các địa phương, doanh nghiệp, nhất là người nô;ng dân về vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất, kinh doanh trong ngành nô;ng nghiệp ngày càng được nâng cao. Đến nay, cả nước có trên 2 triệu hộ nô;ng dân sản xuất nô;ng nghiệp được đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, hàng chục nghìn sản phẩm nô;ng nghiệp được đưa lên các sàn thương mại điện tử. Tính đến hết năm 2021, cả nước có gần 12% tổng số doanh nghiệp nô;ng nghiệp ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất, trên 2 nghìn hợp tác xã nô;ng nghiệp thực hiện chuyển đổi số.

Tại các địa phương trên cả nước, chuyển đổi số nô;ng nghiệp được nghiêm túc nhìn nhận và thực hiện. Cô;ng nghệ số khô;ng chỉ ứng dụng trong quản lý điều hành mà cơ bản từng bước được ứng dụng trong các lĩnh vực của ngành nô;ng nghiệp như: Trồng trọt, chăn nuô;i, lâm nghiệp và nuô;i trồng thủy sản với sự góp sức của các doanh nghiệp lớn, có tầm ảnh hưởng như: Vinamilk, TH True milk, Dabaco, VinEco, Hoàng Anh Gia Lai… Điển hình như, cô;ng nghệ Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) được ứng dụng giúp phân tích dữ liệu về mô;i trường, các loại đất, cây trồng, các giai đoạn sinh trưởng của cây. Cô;ng nghệ IoT, Blockchain, cô;ng nghệ sinh học được ứng dụng rộng rãi ở trang trại chăn nuô;i quy mô; lớn; qua đó, góp phần quan trọng trong giám sát dịch bệnh, sản lượng tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc gia súc, gia cầm, quản lý chăn nuô;i theo quy trình khoa học, an toàn dịch bệnh. Cô;ng nghệ DND mã vạch được ứng dụng trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản; cô;ng nghệ GIS (cô;ng cụ dùng để thu thập, quản lý và phân tích dữ liệu từ khô;ng gian địa lý) và ảnh viễn thám dùng xây dựng các phần mềm cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần mềm giám sát trong quản lý rừng, phát hiện sớm suy thoái hay mất rừng, nhờ đó, góp phần đánh giá tài nguyên rừng một cách hiệu quả làm cơ sở phục vụ cho cô;ng tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Chuyển đổi số được thực hiện mạnh mẽ thô;ng qua việc ứng dụng hệ thống sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, hệ thống thu - thả lưới chụp, cô;ng nghệ GIS, thiết bị định vị toàn cầu (GPS) quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ đã giúp cho việc nuô;i trồng và đánh bắt thủy, hải sản hiệu quả.

Khô;ng chỉ ứng dụng vào quá trình sản xuất, chuyển đổi số đã chứng minh được tính linh hoạt, hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm nô;ng sản, góp phần đem lại nguồn nội, ngoại tệ đáng kể đóng góp vào sự tăng trưởng của ngành nô;ng nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đặc biệt trong đại dịch Covid-19, khi chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, cô;ng nghệ số đã được các địa phương sử dụng vào quảng bá, xúc tiến thương mại, đẩy mạnh phân phối và tiêu thụ nô;ng sản. Việc nô;ng sản được đẩy mạnh giao dịch trên các sàn thương mại điện tử trong nước và quốc tế như: Sendo, Shopee; Tiki; Postmart, ViettelPost (Voso), Lazada, trên các nền tảng trực tuyến như: Facebook, Zalo, Youtube… đã giúp ngành nô;ng nghiệp vượt qua mùa dịch. Điển hình trong năm 2021, tại tâm dịch Bắc Giang ứng dụng cô;ng nghệ số đã giúp tiêu thụ khoảng 215 nghìn tấn vải thiều, tăng 50 nghìn tấn so với kế hoạch, trong đó, xuất khẩu 89,3 nghìn tấn, còn lại tiêu thụ nội địa, giá ổn định từ đầu đến cuối vụ, thậm chí có thời điểm còn cao hơn những năm khô;ng có dịch, thu về 6.821 tỷ đồng, tương đương doanh thu năm 2020.


Nhiều chính sách ưu tiên hàng đầu trong chuyển đổi số nô;ng nghiệp
 
Với vai trò quan trọng trong tầm nhìn dài hạn, trên đường đua của cuộc cách mạng cô;ng nghiệp 4.0 và đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp được coi là tất yếu, là giải pháp đột phá để giải bài toán năng suất, phát triển bền vững và luô;n nhận được sự quan tâm, ưu tiên hàng đầu. Tại Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017, Chính phủ đặt ra các giải pháp trọng tâm để thúc đẩy phát triển nô;ng nghiệp cô;ng nghệ cao, trong đó chỉ đạo dành ít nhất 100 nghìn tỷ đồng nguồn vốn huy động từ các ngân hàng thương mại nhà nước để cho vay phát triển nô;ng nghiệp cô;ng nghệ cao, nô;ng nghiệp sạch với lãi suất phù hợp, thấp hơn so với lãi suất thị trường.

Đáng chú ý, nô;ng nghiệp là 1 trong 8 lĩnh vực được nhấn mạnh ưu tiên chuyển đổi số được đề cập tại Quyết định số 749/QĐ-TTg về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, phát triển nô;ng nghiệp cô;ng nghệ cao theo hướng chú trọng nô;ng nghiệp thô;ng minh, nô;ng nghiệp chính xác, tăng tỷ trọng của nô;ng nghiệp cô;ng nghệ số trong nền kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp phải dựa trên nền tảng dữ liệu. Tập trung xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành như về đất đai, cây trồng, vật nuô;i, thủy sản. Xây dựng mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên khô;ng và mặt đất phục vụ các hoạt động nô;ng nghiệp. Thúc đẩy cung cấp thô;ng tin về mô;i trường, thời tiết, chất lượng đất đai để người nô;ng dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nô;ng nghiệp qua các nền tảng số. Ứng dụng cô;ng nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Xem xét thử nghiệm triển khai sáng kiến “Mỗi nô;ng dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng cô;ng nghệ số” với mục tiêu mỗi người nô;ng dân được định hướng, đào tạo ứng dụng cô;ng nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo (giá, thời vụ,...) nô;ng sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong nô;ng nghiệp. Thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong cô;ng tác quản lý để có các chính sách, điều hành kịp thời phát triển nô;ng nghiệp như dự báo, cảnh báo thị trường, quản lý quy hoạch.

Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ Nô;ng nghiệp và Phát triển nô;ng thô;n năm 2023 xác định mục tiêu: Phát triển kinh tế số trong nô;ng nghiệp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp, người dân tham gia các hoạt động trong nô;ng nghiệp tăng cường ứng dụng cô;ng nghệ số vào quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nô;ng nghiệp; quản lý, giám sát nguồn gốc; hình thành hệ sinh thái nô;ng nghiệp số nhằm khuyến khích người dân và doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số; ứng dụng cô;ng nghệ số trong quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nô;ng nghiệp. Cung cấp dữ liệu mở có thể truy cập, sử dụng dễ dàng; hoàn thiện kho dữ liệu số đáp ứng các yêu cầu về kết nối; chia sẻ tài nguyên thô;ng tin, dữ liệu. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng thí điểm 02-03 mô; hình mẫu về sản xuất, kết nối nô;ng nghiệp thô;ng minh tại một số địa phương trọng điểm; Tạo điều kiện, thúc đẩy hợp tác cô;ng tư, tăng cường nghiên cứu các cô;ng nghệ số, phát triển các nền tảng số, hoạt động dữ liệu số, thúc đẩy dịch vụ số phục vụ phát triển kinh tế số nô;ng nghiệp; Đẩy mạnh các hoạt động kết nối sản xuất tiêu thụ nô;ng sản, phát triển ngành nghề, dịch vụ du lịch nô;ng thô;n trên nền tảng số, thô;ng qua các sàn thương mại điện tử và thanh toán trực tuyến.

Ngoài ra, Luật đất đai (sửa đổi) vừa được thô;ng qua vào tháng 1/2024 với đổi mới về mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nô;ng nghiệp, cho phép tích tụ đất đai dự kiến sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp ứng dụng cô;ng nghệ số trên những cánh đồng mẫu lớn. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng khoa học cô;ng nghệ để sử dụng hiệu quả quỹ đất đã tích tụ, góp phần thúc đẩy nô;ng nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững hơn. Qua đó, đem lại thuận lợi trong sản xuất và quản lý trong nô;ng nghiệp, đồng thời giúp đem lại hiệu quả cao, đột phá về năng suất, chất lượng, tiết kiệm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tuy nhiên thực tế hiện nay, chuyển đổi số nô;ng nghiệp vẫn còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế, làm ảnh hưởng đến tiến trình chung. Trong đó phải kể đến tình trạng cơ sở hạ tầng số ở khu vực nô;ng thô;n Việt Nam vẫn cần được cải thiện, quy mô; ứng dụng chuyển đổi số vẫn cần được mở rộng và đồng bộ giữa các vùng, miền, địa phương. Nhận thức và kỹ năng sử dụng thiết bị thô;ng minh của nô;ng dân còn hạn chế, diện tích canh tác nhỏ; doanh nghiệp nô;ng nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư cho chuyển đổi số. Vì vậy, để giải thành cô;ng bài toán chuyển đổi số ngành nô;ng nghiệp, một số giải pháp đặt ra đó là: (1) Nâng cao nhận thức của các địa phương, doanh nghiệp và nhất là người nô;ng dân về vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất, kinh doanh trong ngành nô;ng nghiệp; (2) Xây dựng hạ tầng cô;ng nghệ số hiện đại và đồng bộ với chi phí cạnh tranh; (3) Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành xây dựng hệ thống dữ liệu ngành nô;ng nghiệp; (4) Nâng cao trình độ, năng lực tiếp cận và đưa cô;ng nghệ số vào sản xuất nô;ng nghiệp cho nô;ng dân; (5) Xây dựng và hoàn thiện chính sách phục vụ chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp phù hợp và kịp thời, tạo động lực thúc đẩy cô;ng cuộc chuyển đổi số ngành nô;ng nghiệp đúng trọng tâm và hiệu quả./.


Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, giá trị tăng thêm của ngành nô;ng nghiệp tăng 3,88% so với năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Xuất khẩu nhóm hàng nô;ng sản, lâm sản được đánh giá là thành cô;ng của ngành nô;ng nghiệp Việt Nam. Tính chung cả năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nhóm hàng nô;ng sản, lâm sản ước đạt 28,15 tỷ USD, tăng 12,9% so với năm 2022, là nhóm hàng duy nhất tăng trưởng dương trong số 4 nhóm hàng xuất khẩu chính. Trong cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nô;ng sản, lâm sản chiếm tỷ trọng 7,9%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước.

Trong 2 tháng đầu năm 2024, các sản phẩm của ngành nô;ng nghiệp tiếp tục có những đóng góp ấn tượng, là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu cả nước. Trong đó, một số mặt hàng nô;ng sản xuất khẩu đạt giá trị cao, tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, như: Cà phê tăng 67,5%, đạt 1,25 tỷ USD; thủy sản tăng 22,3%, đạt 1,3 tỷ USD…
ThS. Cấn Thị Thùy Linh - ThS. Ngô; Thị Luyến
Học viện Hành chính Quốc gia
 

Link Tải Xuống Lucky Rat